Hầu hết người dân có thể nạp mức vitamin C khuyến nghị từ thực phẩm. Với một số trường hợp bệnh lý, việc tăng chất bổ sung cao hơn và vượt quá mức cho phép có thể hữu ích.
Theo Viện Y tế Quốc gia Mỹ (NIH), việc uống bổ sung vitamin C rất phổ biến ở Mỹ, với khoảng 35% người lớn dùng vitamin tổng hợp có chứa vitamin C và 12% dùng một loại thực phẩm bổ sung vitamin C riêng biệt.
Vitamin C là một chất dinh dưỡng thiết yếu, có nghĩa là chúng ta cần lấy nó từ thực phẩm hoặc chất bổ sung để đáp ứng nhu cầu của cơ thể.
Theo NIH, hầu hết chất bổ sung vitamin C đều chứa vitamin C ở dạng axit ascorbic, có khả năng sinh học tương đương với vitamin C có tự nhiên trong thực phẩm. Vitamin C và axit ascorbic giống nhau và các thuật ngữ này có thể được sử dụng đồng nghĩa với nhau.
NIH khuyến nghị rằng người lớn nên bổ sung 75 mg vitamin C mỗi ngày (đối với nữ) và 90 mg mỗi ngày (đối với nam). Những người hút thuốc nên nhận thêm 35 mg mỗi ngày, và phụ nữ mang thai và cho con bú nên nhận 85 và 120 mg.
Bổ sung vitamin C qua thực phẩm là cách tốt và an toàn nhất.
Theo Mayo Clinic, hầu hết mọi người đều cung cấp đủ vitamin C chỉ thông qua chế độ ăn uống. Nó có sẵn trong trái cây họ cam quýt, ớt, cà chua và quả mọng, cùng các loại trái cây và rau quả khác.
Nói chung, những người khỏe mạnh không có tình trạng sức khỏe bất thường có thể đáp ứng nhu cầu của họ về vitamin C bằng cách tiêu thụ một chế độ ăn uống đa dạng với các loại thực phẩm giàu vitamin C.
“Thực phẩm bổ sung có thể giúp lấp đầy khoảng trống trong chế độ ăn uống, tuy nhiên, thực phẩm luôn là cách tốt hơn để có được chất dinh dưỡng này. Bằng cách ăn toàn bộ thực phẩm, bạn cũng được hưởng lợi từ các chất dinh dưỡng khác của thực phẩm”, tiến sĩ Michelle Zive, huấn luyện viên dinh dưỡng có trụ sở tại San Diego, cho biết.
Đối với những người cần liều lượng vitamin C cao hơn, có thể cân nhắc dùng thực phẩm bổ sung. Hầu hết chất bổ sung vitamin C bắt đầu với hàm lượng từ 100 đến 500 mg mỗi viên nang, chắc chắn cao hơn hàm lượng vitamin C có trong thực phẩm giàu vitamin C.
Dưới đây là 5 lợi ích của việc bổ sung vitamin C được hỗ trợ bởi nghiên cứu:
1. Vitamin C có thể giúp giảm thời gian và mức độ nghiêm trọng của bệnh tật
Vitamin C không chắc có thể bảo vệ bạn khỏi bị cảm lạnh, nhưng bổ sung nó có thể giúp giảm thời gian và mức độ nghiêm trọng của bệnh tật. Trong số các nghiên cứu mà các nhà khoa học đã xem xét, tất cả đều liên quan đến việc bổ sung hơn 0,2 gam (g) vitamin C mỗi ngày. Một số phát hiện ra rằng vitamin C làm giảm thời gian bị cảm lạnh. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc bổ sung vitamin C có thể vẫn hữu ích vì nó an toàn và rẻ tiền.
Bổ sung vitamin C cũng có thể giúp bạn phục hồi sau các bệnh nghiêm trọng hơn. Theo một phân tích tổng hợp được công bố trên Tạp chí Nutrients, bổ sung vitamin C làm giảm thời gian nằm viện chăm sóc đặc biệt khoảng 8% và rút ngắn thời gian thở máy cho bệnh nhân xuống 18,2%. Đối với các nghiên cứu, liều vitamin C từ 1 đến 3 g đã được sử dụng.
2. Vitamin C điều trị bệnh Scorbut
Không có gì ngạc nhiên khi bệnh Scorbut- một bệnh do thiếu vitamin C – thường được điều trị bằng cách bổ sung vitamin C. Khuyến cáo là uống 1 đến 2 g vitamin C trong hai hoặc ba ngày đầu điều trị, 500 mg mỗi ngày trong tuần tiếp theo, sau đó 100 mg mỗi ngày cho đến ba tháng sau đó.
Phần lớn những người được điều trị bệnh Scorbut sẽ cải thiện triệu chứng trong vòng 48 giờ và hồi phục hoàn toàn trong vòng 14 ngày.
3. Vitamin C bảo vệ các khía cạnh khác nhau của tim
Vitamin C giúp ích cho tim theo một số cách như giúp kiểm soát huyết áp…
Theo một phân tích tổng hợp được công bố trên Tạp chí Dinh dưỡng Lâm sàng Hoa Kỳ, bổ sung vitamin C (liều trung bình là 500 mg) giúp những người bị huyết áp cao giảm huyết áp tâm thu 4,85 mm thủy ngân (mm Hg).
Một nghiên cứu khác được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ cho thấy rằng lượng vitamin C cao có liên quan đến việc giảm nguy cơ đột quỵ, đáng kể nhất là ở những người dùng từ 200 đến 550 mg vitamin C mỗi ngày.
Bổ sung vitamin C liều có hữu ích trong một số trường hợp.
Theo một đánh giá được công bố trên Tạp chí Khoa học Phân tử Quốc tế cho thấy, thiếu vitamin C làm tăng nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch. ĐIều này là do vitamin C có thể giúp cải thiện chức năng mạch máu và cấu trúc lipid. Tuy nhiên, các tài liệu hiện tại ít cung cấpthông tin hỗ trợ cho việc sử dụng rộng rãi việc bổ sung vitamin C để giảm nguy cơ tim mạch hoặc tử vong tại thời điểm này.
4. Vitamin C giúp giảm nguy cơ mắc bệnh gout
Bệnh gout, một dạng viêm khớp gây đau đớn, là do cơ thể có quá nhiều axit uric. Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh với hạn chế uống rượu có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh gout và bổ sung vitamin C cũng có thể giúp ích.
Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng vitamin C có thể làm giảm vừa phải nồng độ axit uric ở những người bị bệnh gout. Bổ sung vitamin C (liều trung bình là 500 mg) làm giảm axit uric huyết thanh xuống 0,35 miligam mỗi decilit (mg/dL).
Nồng độ axit uric bình thường là 1,5 đến 6 mg / dL ở phụ nữ và 2,5 đến 7 mg / dL ở nam giới.
5. Vitamin C có thể hỗ trợ điều trị ung thư hiệu quả hơn
Vitamin C không thể ngăn ngừa hoặc chữa bệnh ung thư, nhưng nó có thể là một chất bổ sung có lợi cho việc điều trị ung thư.
Ví dụ, một phân tích tổng hợp được công bố trên Tạp chí Ung thư Châu Âu cho thấy rằng những người bị ung thư vú bổ sung vitamin C sẽ giảm nguy cơ tử vong. Vitamin C có thể giúp thúc đẩy các phương pháp điều trị tiêu chuẩn.
Theo một nghiên cứu nhỏ được công bố trên tạp chí Cancer Cell, việc uống vitamin C liều cao trong hai tháng trong quá trình điều trị ung thư đã làm suy yếu các tế bào ung thư và làm cho quá trình xạ trị và hóa trị hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là phần lớn nghiên cứu này liên quan đến việc dùng vitamin C qua đường tĩnh mạch thay vì đường uống. Bất kỳ ai đang điều trị ung thư nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi dùng vitamin C hoặc bất kỳ chất bổ sung nào khác vì nguy cơ tương tác tiềm ẩn với phương pháp điều trị ung thư của họ.
Theo Zing – Ảnh: T.H