Nghệ cung cấp rất nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khỏe như protein, chất xơ, niacin, Vitamin C, Vitamin E, Vitamin K, natri, kali, canxi, đồng, sắt, magiê và kẽm. Nó được sử dụng phổ biến làm gia vị cho các món ăn. Hơn thế, nghệ còn chứa rất nhiều các chất như chất chống oxy hóa, kháng virus, kháng khuẩn, kháng nấm, chống ung thư, kháng đột biến và chống viêm. Do đó, nó được sử dụng nhiều để làm thuốc chữa bệnh.
Trị viêm gan virut cấp tính: Nghệ 12g; nhân trần, bồ công anh, bạch mao căn mỗi vị 40g; chi tử 16g; đại hoàng, hoàng liên mỗi vị 9g. Sắc uống, ngày một thang, chia 3 lần, trước bữa ăn. Uống liền 3 – 4 tuần lễ.
Trị viêm gan mạn tính: Nghệ 4g; côn bố, đình lịch tử mỗi vị 12g; hạt bìm bìm, hải tảo mỗi vị 10g; quế tâm 6g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần uống trước bữa ăn.
Trị sỏi gan, sỏi mật: Uất kim, phèn chua đồng lượng 10g. Hai vị tán bột uống ngày một thang, trước bữa ăn. Nếu có mật gấu gia thêm thì càng tăng công hiệu.
Cầm máu: Nghệ giúp cầm máu rất nhanh, hơn nữa nó lại có thể kháng khuẩn, giúp ngăn ngừa nhiễm trùng.
Khi bị các vết đâm hay đứt tay chân… đổ bột nghệ vào chỗ vết thương, sau đó dùng gạc băng lại và ép nhẹ vào chỗ bị thương để cầm máu. Trường hợp nghiêm trọng ngay lập tức cần phải đưa đi bệnh viện kịp thời.
Bệnh ung bướu: Curcumin (thành phần hoạt chất chính trong tinh bột nghệ) có tiềm năng đáng kể như một tác nhân phòng chống ung bướu.
Có rất nhiều bằng chứng trong các tài liệu cho thấy rằng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của các loại phổ biến của bệnh ung bướu như vú, tuyến tiền liệt, ruột kết và phổi thấp hơn đáng kể ở Ấn Độ hơn so với những người ở các quốc gia phương Tây như Hoa Kỳ.
Tỷ lệ mắc ung bướu thấp hơn ở Ấn Độ đã được quy cho mức tiêu thụ chất curcumin cao (trong các loại nghệ) của người dân Ấn Độ.