Tôn phu nhân (chữ Hán: 孫夫人) là một phu nhân của Thục chúa Lưu Bị, người đã lập ra Thục Hán vào thời kì thời Tam Quốctrong lịch sử Trung Quốc.
Bà là con gái duy nhất và là con nhỏ nhất của Trường Sa thái thú Tôn Kiên, và là em gái của Tôn Sách và Tôn Quyền, những người tạo dựng cơ nghiệp nước Đông Ngô, một thế lực từng lập liên minh với Thục Hán trong một thời gian dài.
Tôn phu nhân còn được biết đến với tên Tôn Nhân (孫仁) trong Tam Quốc diễn nghĩa và Tôn Thượng Hương (孫尚香) trongKinh kịch.
Tôn phu nhân không rõ năm sinh, người Phú Xuân, Ngộ quận (吴郡富春). Theo Tam quốc chí ghi lại, bà thông minh mẫn tiệp, có tính cách cương trường, giỏi kiếm cung, rất giống 2 người anh trai là Tôn Sách và Tôn Quyền.
Năm 209, sau Trận Xích Bích với thắng lợi thuộc về Đông Ngô, bà được gả cho Lưu Bị nhằm giữ vững mối hòa hiệp trong liên minh Ngô-Thục. Vào lúc đó, bà chỉ vừa tầm 20 tuổi, còn Lưu Bị đã hơn 40 tuổi. Do cả hai bà vợ trước đó của Lưu Bị đều đã mất, Tôn phu nhân dần dần kiểm soát nhà và con trai Lưu Thiện của Lưu Bị.
Nàng được ví như một tráng sĩ, một cảm tử quân bất chấp hiểm nguy. Mang phận nữ nhi nhưng nàng mạnh mẽ chẳng khác nào nam tử, suốt ngày thích cưỡi ngựa bắn cung, tập luyện binh đao võ nghệ. Thêm vào đó, tính tình hào sảng, cương trực thẳng thắn, Tôn Thượng Hương khiến người khác vô cùng sảng khoái và không thể không xem trọng. Vốn tính tình mạnh mẽ lại ngang ngược ngổ ngáo, đêm tân hôn, Tôn Thượng Hương “lận” trong mình binh đao vũ khí để “thử” chồng.
Lưu Bị vừa vào liền bị nàng xuất đao nhào tới đâm cuồng. Vốn từng trải qua binh loạn lửa lạc, tiếng binh khí có thể khiến người hoảng sợ nhưng không dọa được Lưu Bị. Trước thái độ mạnh mẽ của chồng, Tôn Thượng Hương đã phần nào nể phục. Ngược lại, đã biết quá rõ tính khí của cô công chúa ngang ngạnh, Lưu Bị cũng lấy đó làm bình thường.
Thời gian đầu về làm người nước Thục, nội tâm Tôn Thượng Hương vô cùng mâu thuẫn. Nàng bị giằng xé một bên là anh trai một bên là chồng, một bên là nước Ngô, một bên là đất Thục. Nghiêng bên nào cũng thấy khó, giúp bên nào cũng có lỗi. Đứng giữa mưu toan của Tôn Quyền, một bên là nghĩa vợ chồng nên thái cực tình cảm của nàng cũng sáng nắng chiều mưa.
Tình cảm nàng dành cho Lưu Bị nếu lúc đầu là thù ghét lãnh đạm thì dần dần “mưa dầm thấm lâu”, biến thành nghĩa phu thê đồng cam cộng khổ. Hai năm sau, quan hệ Thục – Ngô không tiến chỉ có lùi, căng thẳng tột cùng, chiến tranh giết chốc manh nha. Đứng giữa ngã ba đường, ở lại cũng khó, vì dễ mang tiếng “gián điệp chiến tranh”, người ra tiếng vào, khó xử cho Lưu Bị. Mặc khác, Tôn Thượng Hương biết không thể từ bỏ quê cha đất tổ, gạt bỏ gánh nặng gia tộc quay lưng lại với mẹ và anh nên nghe theo lời mẹ, nàng trở về cố quốc. Thất bại tại trận Di Lăng, Lưu Bị ôm mối hận chính trị, bệnh nặng rồi qua đời ở tuổi 63. Lúc này Tôn Thượng Hương vẫn ở tại Ngô quốc, nhận tin Lưu đế qua đời, không ai thấy nàng rơi lệ.
Dẫu vậy, dù không có tình nhưng còn nghĩa, một ngày làm chồng cũng là đạo phu thê, chỉ tiếc sinh ra là hai kẻ thù địch, tình không trọn, đạo không không thể không tuân, Tôn Thượng Hương vì thế cũng trầm mình xuống sông theo Lưu Bị về cõi bên kia. Cũng có sử sách cho rằng nàng không chết theo Lưu Bị mà cứ sống vậy đến già tại quê nhà. Nhưng với một người cương trực, trọng nghĩa khí như Tôn Thượng Hương, người ta tin rằng nàng sẽ chọn cái chết để trọn nghĩa vẹn tình.