– Ung thư: Tỏi có tác động đáng kể trong việc giảm thiểu tần suất rủi ro mắc các bệnh ung thư, nhất là ung thư đường ruột. Nhiều nghiên cứu được thực hiện trên một nhóm người, động vật và trong ống nghiệm cũng đã cho thấy tỏi có tác dụng kháng ung thư nhờ vào khả năng vô hiệu hóa những hợp chất sinh ung thư cũng như “câu giờ” sự tăng trưởng của tế bào ung thư. Nhiều nghiên cứu cho thấy tỏi không những làm chậm tốc độ tăng trưởng của bướu mà còn làm giảm đi kích thước của bướu tới 50%.
Tỏi trở thành “khắc tinh” của các loại ung thư như ung thư vú, thực quản, dạ dày, ruột, tiền liệt tuyến, bàng quang. Riêng ung thư vú, tỏi có tác dụng rõ rệt trong việc ngăn chặn các tác nhân sinh ung thư (carcinogens) tấn công vào các tế bào nhũ hoa. Những thành phần sáng giá trong tỏi có tác dụng kháng ung thư gồm diallye disulphide và s-allystein. Những hợp chất này chỉ “lộ diện” khi tỏi bị đâm nhuyễn, giã nát. Ngoài ra, trong tỏi cũng có một hợp chất kháng ung bướu “tên tuổi” là ajoenes.
– Các bệnh tim mạch: Bằng thế “đòn xóc 2 đầu”, tỏi vừa làm hạ mức “cholesterol xấu”, đồng thời làm tăng lượng “cholesterol tốt”, có tác dụng “dọn dẹp” những mảng xơ vữa đu bám vào thành mạch máu. Tỏi có tác dụng hạ lượng cholesterol tới 9% nếu chỉ cần nhai 2 tép mỗi ngày. Tỏi cũng có tác dụng bảo vệ các động mạch chủ. Đây là những mạch máu của tim có tác dụng duy trì huyết áp và lưu lượng máu khi tim đập.
Tuổi tác, thiếu dinh dưỡng, khói thuốc sẽ gây ra sự xơ cứng đối với các động mạch chủ. Ăn tỏi thường xuyên sẽ giúp làm chậm tiến trình lão hóa các động mạch chủ cũng như giúp chúng linh hoạt và dẻo dai hơn.
– Cao huyết áp: Tỏi có tác dụng kiểm soát huyết áp bằng cách làm giảm độ nhớt của máu nhờ vào chất ajioene. Chất này còn ngăn ngừa sự hình thành các cục máu đông.
Nhiều nghiên cứu cho thấy cư dân ở những vùng nào tiêu thụ nhiều tỏi thì ở đấy, họ hiếm gặp các bệnh về huyết áp và tim mạch. Y học cổ truyền Trung Hoa từ lâu đã dùng tỏi để trị đau thắt ngực hoặc rối loạn tuần hoàn máu.
– Nhiễm trùng: Người ta đã phát hiện ra đặc tính kháng khuẩn của tỏi từ năm 1858 khi Louis Pasteur khám phá rằng tế bào vi khuẩn sẽ bị chết nếu được thấm tỏi. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, các bác sĩ Anh đã dùng tỏi như một chất kháng sinh để điều trị vết thương cho binh sĩ.
Albert Schweitzer (nhà triết học và là bác sĩ người Đức gốc Pháp) đã dùng tỏi để trị bệnh sốt phát ban (typhus) và bệnh dịch tả (cholera). Không những có tính kháng khuẩn, tỏi còn có tính kháng nấm và kháng virus.{{}}